https://local.google.com/place?id=9202209672734875327&use=srp
Bảng giá Web miến lươn ô quan chưởng Như thế thì có thể ở đời Lê cửa ô này còn nhỏ hẹp, hoặc kiến trúc sơ sài. Đến năm 1817 mới xây lại cho kiên cố. Xem xét loại gạch xây ở đây thấy rất giống loại gạch tường bao quanh Văn Miếu vốn cũng được xây vào đời Gia Long. Và lối kiến trúc vọng lâu ở đây cũng giống kiểu các cổng tòa hành cung nhà Nguyễn còn sót lại ở trong khu doanh trại quân nhân mà nay dân quen gọi là khu “trong thành”.
Sau khi chiếm đóng Hà Nội, người Pháp đã cho phá bỏ các công trình cũ quanh thành phố để mở mang khu phố mới. Nhưng riêng ô Quan Chưởng, nhờ có sự chiến đấu bền chí của quần chúng. # và của ông cai tổng Đồng Xuân, Đào Đăng Chiểu (1845-1916), nên chủ trương đó không thực hành được. Vì ông Cai tổng cùng với nhân dân nhất quyết không chịu ký tên vào tờ trình xin phép phá cửa ô nên rút cuộc người Pháp phải nhượng bộ. Nhờ vậy mà đến nay tỉnh thành còn lưu lại được một vết tích quý của kiến trúc xưa.
Nhưng diện mạo Ô Quan Chưởng như bây giờ là do lần tu bổ lớn vào năm 1817. Ô Quan Chưởng còn có tên là Ô Thanh Hà. Quan Chưởng là chức quan chỉ huy vệ binh. Ngày 20-11-1873, thực dân Pháp mở cuộc tấn công Hà Nội lần thứ nhất. Từng đoàn tàu chiến, tàu đổ bộ ngược sông Hồng, đổ quân ào ạt tiến vào Hà Nội qua cửa ô Đông Hà. Quan Chưởng cùng trên 100 vệ binh đã dàn trận dọc theo bờ sông, tại đây đã nổ ra cuộc chiến ác liệt và không cân sức, quân ta gan góc chiến đấu tới người rốt cục... Từ đó cửa ô Đông Hà được gọi là "Cửa ô Quan Chưởng".
Ô Quan Chưởng hay còn gọi là ô Đông Hà, tên chữ là Đông Hà môn (東河門, tức cửa phường Đông Hà), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh đế kinh Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến hiện tại. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ
Rao vặt Web 15 ô quan chưởng đồng xuân hoàn kiếm hà nội Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Michael W. Michalak nói: “Ô Quan Chưởng là một di tích kiến trúc đẹp đến ngỡ ngàng nhưng đang vỡ. Trước dấu mốc quan yếu Hà Nội bước vào tuổi 1.000 năm, chúng tôi rất vinh dự được cùng các bạn tu tạo, bảo tàng di tích này. Ô Quan Chưởng không chỉ là một cột mốc của thành Thăng Long xưa, nó còn là một biểu tượng của ý thức và sự kiên cường của người dân Hà Nội. Tôi cũng hy vọng là sau khi bảo tồn xong, công trình này sẽ là một tượng trưng của tình hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Trong một thành thị từng chịu đựng nhiều tổn thất từ các cuộc ném bom của Hoa Kỳ trong chiến tranh, việc chúng tôi với quần chúng. # và Chính phủ Việt Nam cùng nhau bảo tồn một bảo vật quốc gia của các bạn thật là một minh chứng ráo cho mối quan hệ ngày càng lớn mạnh và khăng khít giữa chúng ta”.
ngày nay hầu hết các cửa ô khác chỉ còn lưu lại địa danh sau này trở thành tên gọi của phố phường như ô Chợ Dừa là tên gọi một cái chợ phía tây-nam thị thành, ô Cầu Giấy còn biết được vì là tên gọi của cái cầu gạch bắc qua sông Tô Lịch… chứ không còn một kiến trúc nào có thể gợi lại dấu tích xưa. Tuy nhiên rất may mắn cho chúng ta, Hà Nội vẫn còn một cửa Ô gần như nguyên vẹn đó là Ô Quan Chưởng.
Ô Quan Chưởng là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh kinh kì Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến hiện tại. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ, là di tích đã được xếp hạng năm 1995.
Ngày 3-6-2009, tại Hà Nội, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Michael Michalak công bố khoản tài trợ trị giá 74.500 USD dành cho Việt Nam để thực hành việc bảo tồn Ô Quan Chưởng, cửa ô cổ độc nhất còn lại ở Hà Nội. Dự án này được tài trợ ưng chuẩn Quỹ bảo tàng Văn hóa của Đại sứ Mỹ và là một phần trong các hoạt động kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chuyển nhượng TOP quán mỹ phẩm ô quan chưởng Còn về tên gọi của cửa ô này thì có nhiều thuyết nhưng có nhẽ chỉ có hàng chữ Hán khắc ở trên vòm cửa chính: Đông Hà môn (cửa Đông Hà) là tên gọi xác thực nhất (xem thêm mục Hàng Chiếu).
Dang tin Web o quan chuong map Ngày trước sông Hồng còn chảy sát ngay bờ đê (đường Trần Nhật Duật) nên phố Ô Quan Chưởng kề ngay bến sông, có nhiều cửa hàng bán chiếu, nên dân quen gọi là phố Hàng Chiếu. Về sau, những cửa hàng chiếu lan dần vào cả phía trong, sang phố Hàng Chiếu hiện tại.
Ô Quan Chưởng nằm nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, mặt trước nhìn về phía đông và sông Hồng, mặt sau nhìn về phía tây và phố Hàng Chiếu kéo dài . Về kiến trúc có vòm cửa trấn giữ, trên lại còn lưu giữ một lầu địch vọng là nơi canh gác. Cửa được xây vòm tò vò rộng, trước đây có hai cổng bằng gỗ dày lớn, ban đêm lính canh đóng cửa thành và mở ra buổi sớm cho người dân tương hỗ, buôn bán.
hiện tại, ô Quan Chưởng nằm nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, gần dưới chân cầu Chương Dương. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành thị đi ra bờ sông, thực dân địa phận phường Đông Hà, tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành.
Cổng xây có vọng lâu được canh gác và kiểm soát nghiêm mật để giữ an ninh cho khu phố buôn bán bên trong. Hiện cửa ô còn nguyên lối tam quan với cửa chính và hai cửa phụ hai bên, trên nóc cửa chính có vọng lâu, tường phía trái cửa chính có gắn một tấm bia đá do Tổng đốc Hoàng Diệu cho đặt năm 1881 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách nhiễu nhân dân mỗi khi hỗ tương cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán 東河門 (Đông Hà môn).
Thuê Web tranh vẽ ô quan chưởng Cửa ô này mở qua tường phía đông của tòa thành đất bao quanh kinh đô Thăng Long xưa. Tòa thành này được đắp vào năm 1749 (trên nền tảng một tòa thành cũ hơn). Như vậy thì cửa ô Quan Chưởng cũng đã có từ hồi đó, nhưng sau có sang sửa lại. Cụ thể là theo tấm bia hiện còn trong đình Thanh Hà (số 77 phố Hàng Chiếu tức số 10 phố Ngõ Gạch) thì vào năm Gia Long Đinh Sửu tức năm 1817 đã xây dựng lại cửa ô này để mở rộng đường đi.
Qua bao thăng trầm, Ô Quan Chưởng vẫn uy nghiêm đứng đó, cố giữ gìn cho Hà Nội nghìn năm văn hiến một kỳ quan đơn sơ, dân dã mà quý báu đến hết sức. hiện, cửa ô còn nguyên một cửa chính và hai cửa con hai bên. Trên nóc cửa chính là một vọng lâu. Ngày xưa có lính tuần canh gác ở đây. Bên tường phía trái có gắn một tấm bia khắc năm 1882 ghi lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu cấm bọn lính sách nhiễu những đám tang qua lại cửa ô. Phía trên cửa lớn có ba chữ Hán: “Thanh Hà Môn” tức là cửa Thanh Hà (vì cửa này ở thôn Thanh Hà, cạnh cửa sông Tô Lịch xưa. Thanh Hà là tên gọi của một phường đời Lê bao gồm khu vực Hàng Chiếu, Thanh Hà, Đào Duy Từ). Như vậy là các vòm cửa từng có cửa, ngày mở, đêm đóng.
No comments:
Post a Comment